Pages

Chủ Nhật, 29 tháng 7, 2012

Chuyện Chiếc Mũ Xanh Biệt Cách Nhẩy Dù & Lực Lượng Đặc Biệt



  Bài viết của anh Phan Văn Huấn liên quan đến sự thành lập binh chủng LLÐB và BCND
Mỗi quân nhân đều tự hào với màu cờ sắc áo của đơn vị mình. Binh chủng Nhảy Dù (ND) với chiếc Mũ Ðỏ, Thủy Quân Lục Chiến (TQLC) Mũ Xanh màu nước biển, Biệt Ðộng Quân (BÐQ) Mũ Nâu, Thiết Giáp (TG) Mũ Ðen, và Lực Lượng Ðặc Biệt (LLÐB) hãnh diện với chiếc Mũ Xanh màu lá cây rừng (green beret), v.v. Ðối với các đơn vị tác chiến nhất là các đơn vị tổng trừ bị thì niềm kiêu hãnh này đã là chất xúc tác mạnh mẽ nâng cao tinh thần chiến đấu của đơn vị. Sau đây là câu chuyện của chiếc mũ mầu Xanh lá cây rừng (The Green Beret) LLÐBVN.
Ngày 22/4/57, tôi vào trình diện BTTM để nhận lệnh mới thì được đưa đến tạm trú tại dãy nhà ở đường Hiền Vương, gần câu lạc bộ sĩ quan An Ðông, Chợ Lớn để đợi lệnh. Sau hơn một tháng chờ đợi, hơn 20 anh em mới được đưa ra Vũng Tàu để học lớp truyền tin đặc biệt, đại úy Bùi Thế Minh được chỉ định làm trưởng lớp, đại úy Tống Hồ Hàm làm phó. Một buổi sáng nọ, được nghỉ học để nghe thượng cấp nói chuyện, chúng tôi lên xe ra thẳng bãi sau Vũng Tàu, nơi đây đã được cảnh sát canh gác cẩn thận, không một người dân nào được lai vãng gần nơi đó. Trên một bàn dài kê sẵn, thượng cấp gồm có thiếu tướng Trần Văn Ðôn, trung tá Lê Quang Tung, và vài ba vị cố vấn Mỹ. Tôi nhớ lời tr/tá Tung nói: ”Các anh là nòng cốt của một binh chủng mới, đó là Lực Lượng Ðặc Biệt (LLÐB). Sau 3 tháng học lớp truyền tin xong, các anh sẽ học nhảy dù rồi học lớp LLÐB. Sau lớp LLÐB các anh sẽ chính thức hành quân đặc biệt là nhảy vào hậu phương địch để hoạt động, các anh nhớ là khi nhảy dù xuống hậu phương địch thì đã có người của mình đón tiếp và giúp các anh hoàn thành công tác giao phó”.Sau một tháng học nhảy dù, chúng tôi di chuyển ra Nha Trang, học lớp LLÐB tại trường Biệt Ðộng Ðội ở Ðồng Ðế do một toán LLÐB Mỹ từ Okinawa đến huấn luyện. Ðại úy Cramer là trưởng toán, lớp học được hơn một tháng thì trong một cuộc thực tập phục kích gần đèo Rù Rì, đại úy Cramer, một thượng sĩ cố vấn và trung úy Phan Thanh Ðàn tử thương vì sơ ý trong việc xử dụng chất nổ! Lớp học vẫn tiếp tục trong sự luyến tiếc những người đã nằm xuống và sự ngờ vực của người Mỹ. Một toán điều tra của Mỹ từ Saigon ra tìm hiểu sự thật một thời gian ngắn và kết luận là cố vấn Mỹ chết vì tai nạn chứ không phải vì một âm mưu phá hoại nào. Mặc dù đã được xác định như thế nhưng chúng tôi đi thực tập, chỉ được mang súng, không được mang đạn dược và chất nổ theo.Sau 4 tháng gian khổ học tập, khóa A đầu tiên của binh chủng LLÐB mãn khóa vào tháng 12/57. Các khóa B, C, D sau đó vẫn tiếp tục huấn luyện tại trường Biệt Ðộng Ðội Ðồng Ðế Nha Trang và huấn luyện viên của các khóa sau này đều do khóa A đảm trách. Vì tính cách quan trọng của việc thành lập binh chủng LLÐB. Ðại úy Phạm Văn Phú (thiếu tướng) và trung úy Trần Hửu Tác (trung tá) là khóa sinh khóa B cũng như nhiều khóa sinh ưu tú khác nhập học. Sau khóa D mãn khóa thì có cuộc hành quân thực tập, nhảy dù xuống vùng Xuyên Mộc Ðất Ðỏ thuộc tỉnh Bình Tuy chừng 2 tuần, cuộc hành quân này gồm nhiều toán A, mỗi toán 15 người, toán tôi thì có tr/úy Lê Tất Biên toán phó, thượng sĩ Kalani làm cố vấn. Toán tôi đóng quân trong mật khu Lang Ma của cộng sản. Tại đây, một kỷ niệm mà tôi còn nhớ mãi là khi tr/úy Biên cùng 2 người nữa mang súng garant đi sâu vào rừng (tr/úy Biên thích đi săn lắm), hôm đó trung uý Biên đội đèn trên đầu tay cầm súng carbine. Một giờ sau, thì tiếng súng nổ ran như đang giao tranh với Việt cộng. Tôi vội vã tập họp toán lại để đi tiếp cứu thì thấy toán trung uý Biên hổn hển chạy về! Trung úy Biên nói ”Tôi đang đi theo đường xe be giữa rừng cây um tùm thì hết thấy lối đi nhưng chiếu đèn trên cao, đột nhiên thấy nhiều con mắt của thú rừng như sao trên trời! Nhìn kỹ thì đó là những đôi mắt của một đàn voi đang chắn lối đi! Thế là cả 3 người đồng loạt nổ súng và chạy lui” Ðàn voi bị tấn công bất ngờ, chạy tán loạn. Ðêm đó chúng hú gọi nhau vang cả khu rừng làm anh em chúng tôi không dám ngủ, sẵn sàng tư thế chống trả.
Sau khi khóa A mãn khóa thì được mang danh hiệu là Liên Ðội Quan Sát Số 1 (LÐQSS1), đại úy Bùi Thế Minh làm chỉ huy trưởng và đại úy Tống Hồ Hàm chỉ huy phó. Nhưng đến khóa B thì thiếu tá Ðàm Văn Quý thay thế làm chỉ huy trưởng và được đội Mũ Ðỏ như Nhảy Dù. Ðến ngày 11 tháng 11 năm 1960, Liên Ðoàn Nhảy Dù do đại tá Nguyễn Chánh Thi, tr/tá Vương Văn Ðông, và tr/tá Nguyễn Triệu Hồng chỉ huy làm cuộc đảo chánh tổng thống Ngô Ðình Diệm nhưng bất thành, phải bỏ trốn sang Campuchia. LÐQSS1 tức tốc vào Saigon cứu giá, đoàn xe GMC chở LÐQSS1 đi lên Ban Mê Thuột rồi thẳng về Ðồng Xoài, Bình Dương và vượt sông Saigon bằng phà ở Thủ Thiêm để đến dinh Ðộc Lập (vì cầu Bình Lợi đã bị phá sập). LÐQSS1 chưa đến dinh Ðộc Lập thì trật tự đã được vãn hồi trước đó hai hôm! Dù toàn bộ LÐQSS1 chưa vào đến Saigon nhưng đã có một toán 12 người của LÐQSS1 do tr/úy Nguyễn Lộc chỉ huy đã từ Sở Liên Lạc tiến lên đến ngã tư Hồng Thập Tự và Bà Huyện Thanh Quan thì đụng phải th/tá Phan Trọng Chinh (thiếu tướng) và Nhảy Dù đang bao vây dinh, cuộc chạm súng ngắn ngủi đã xảy ra, bên LÐQSS1 có tr/úy Trần Khắc Nghiêm bị thương ở đầu. Tr/úy Nguyễn Lộc là người đầu tiên của LÐQSS1 được vinh thăng đại úy sau cuộc chạm súng thập phần nguy hiểm đó.
Sau chính biến, toàn bộ LÐQSS1 di chuyển vào đóng quân ở trại Hùng Vương, cạnh trường đua ngựa Phú Thọ. Thiếu tá Ðàm Văn Quí được lệnh về làm tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3 nhảy dù đóng ở ngả tư Bảy Hiền và đ/úy Tống Hồ Hàm làm tiểu đoàn phó tiểu đoàn 6 nhảy dù đóng ở Vũng Tàu, và một lần nữa th/tá Phạm Văn Phú về làm chỉ huy trưởng Liên Ðoàn 77.
LÐQSS1 đổi danh thành Liên Ðoàn 77 do nghị định số 1183/QP/NÐ của Bộ Quốc Phòng ngày 3/10/61, rồi LÐ77 đổi danh thành LD301 do nghị định 1409/QP/NÐ ngày 24/7/64, và giải tán do nghị định 284/QP/NÐ ngày 9/6/65. Liên Ðoàn 31 do đ/úy Phạm Duy Tất làm chỉ huy trưởng, không rõ Liên Ðoàn 31 thành lập năm nào, có lẽ năm 62, nhưng chỉ biết LÐ31 đổi danh thành LÐ111 do nghị định số 1409/QP/NÐ ngày 24/7/64 và giải tán do nghị định số 0284/QP/NÐ ngày 19/6/65. Quân số 2 Liên Ðoàn 301 và 111 giải tán để sắp xếp lại và chính thức gọi là binh chủng LLÐB vào tháng 4/63, gồm có một Bộ Tư Lệnh, một đại đội Tổng Hành Dinh, một trung tâm huấn luyện, và 4 bộ chỉ huy C ở 4 vùng chiến thuật, mỗi C có một số B và mỗi B có một số toán A tùy theo tình hình địa phương, mỗi toán A quân số vào khoảng 12 người, tổng cộng quân số LLÐB vào khoảng trên dưới 5,000 cho đến khi giải tán vào năm 70.
Từ năm 1961, LLÐB bắt đầu kế hoạch mở các trại Biệt Kích Biên Phòng (BKBP) (CIDG) dọc theo biên giới Việt Miên Lào để ngăn chặn việt cộng xâm nhập vào lãnh thổ VNCH, tùy theo tình hình, mỗi trại quân số BKBP có từ một tiểu đoàn hoặc nhiều hơn. Cho đến ngày BKBP đổi danh thành Biệt Ðộng Quân Biên Phòng khi LLÐB giải tán vào năm 70 thì quân số đã lên đến trên 50 ngàn quân với gần 50 trại. Cũng từ năm 61 thì LLÐB bắt đầu thành lập các đại đội Biệt Cách Nhảy Dù (BCND) biệt lập rồi đến năm 1964 thì sát nhập lại thành lập tiểu đoàn 91 BCND, thiếu tá Trần Minh Huy làm tiểu đoàn trưởng đầu tiên, đến ngày 1/4/68 đổi danh thành tiểu đoàn 81/BCND. Cũng trong năm 64 này thì LLÐB lập thêm một đơn vị nữa, lấy tên là Trung Tâm Huấn Luyện Hành Quân Delta (TTHL/HQ/Delta) gồm có 12 toán Thám Sát, mỗi toán 6 người, và 12 toán Thám Kích Tiền Phong (TKTP) là Biệt Kích Quân lấy từ các trại do Mỹ trả lương. Ðại úy Nguyễn Văn Khách là chỉ huy trưởng Delta đầu tiên. Bộ Tư Lệnh LLÐB chính thức thành lập vào tháng 4/63 do đ/tá Lê Quang Tung làm tư lệnh, lần này Mũ Ðỏ lại đổi thành Mũ Ðen của binh chủng LLÐB cho đến đầu năm 64 di chuyển ra NhaTrang vẫn còn đội Mũ Ðen, rồi chẳng bao lâu sau, Mũ Ðen đổi thành Mũ Xanh cho đến khi LLÐB giải tán vào tháng 8/70.
Ðại tá Lê Quang Tung kể như làm tư lệnh LLÐB từ ngày thành lập cho đến ngày 1/11/63 thì bị thảm sát. Trung tướng Lê Văn Nghiêm từ 63 đến 64. Chuẩn tướng Lam Sơn từ 64 đến cuối 64. Chuẩn tướng Ðoàn Văn Quảng từ 64 đến 69, sau đó C/tướng Lam Sơn trở lại năm 69, t/tướng Phạm Văn Phú năm 70, và cuối cùng là đ/tá Hồ Tiêu.
LLÐB là binh chủng đầu tiên thi hành những nhiệm vụ vô cùng bí mật đó là thả các toán Biệt Kích ra Bắc hoạt động. Khởi đầu thả vào năm 61 và chuyển giao nhiệm vụ này cho Nha Kỷ Thuật vào năm 64 để từ đó LLÐB chỉ lo hoạt động ở nội địa mà thôi.
LLÐB đã tham dự các trận đánh quyết liệt từ Khe Sanh, Lao Bảo, Làng Vei, Ashau, Alưới, Tà Bạt, Dapek, Dakto, Ben Het, Pleime, Ðức Cơ, Vũng Rô, Ðức Phong, Ðồng Xoài, Bình Long, An Lộc, Tống Lê Chân, Thiện Ngôn, Trại Bí, Ðức Hòa, Ðức Huệ, Ðôn Phục, Cái Cái, cho đến Biệt Khu Hải Yến, Côtô, v.v. Ða số các trận đánh này đều nằm dọc theo biên giới Việt Miên Lào để ngăn chặn việt cộng xâm nhập vào lãnh thổ Việt Nam Cộng Hòa (VNCH). (Vì thiếu tài liệu tham khảo, chỉ kể theo trí nhớ của tôi và nhiều bạn khác, nếu có điều gì cần bổ khuyết thì xin được các bạn chỉ giáo cho).
Không có cái buồn nào bằng cái buồn binh chủng LLÐB bị giải tán vào tháng 8/70! Anh em LLÐB phân tán đi nhiều binh chủng nhưng đa số là chuyển qua BÐQ và NKT; một số ít qua bộ binh, hoặc các trung tâm huấn luyện, nha sở, v.v. Duy chỉ có TTHL/HQ/Delta và tiểu đoàn 81/BCND là không giải tán mà sát nhập lại để lập nên Liên Ðoàn 81/BCND (LÐ81/BCND) do tôi làm chỉ huy trưởng, tr/tá Trần Phương Quế làm chỉ huy phó, đại úy Nguyển văn Lân làm sĩ quan phụ tá đặc trách về huấn luyện. LÐ81/BCND trở thành lực lượng tổng trừ bị trực thuộc Bộ Tổng Tham Mưu (BTTM). LÐ81/BCND phải đau xót cắt bớt 2 đại đội cho sư đoàn Nhảy Dù để trở thành 2 đại đội trinh sát của sư đoàn Mũ Ðỏ! Vì vậy quân số của LÐ81/BCND đáng lý ra là 1200 quân, nhưng nay bị cắt mất 2 đại đội, nên chỉ còn chưa đến 900, nghĩa là chỉ bằng một tiểu đoàn. Nhiều anh em hỏi tôi là tại sao khi thiếu tướng Phạm Văn Phú đi họp tại BTTM bàn về việc giải tán LLÐB mà lại không chịu tranh đấu cho anh em mũ Xanh?, điều này thì chắc chỉ có cố thiếu tướng biết mà thôi vì tình hình lúc đó rất là khó khăn và phức tạp.
Ngày 25/12/70, toàn bộ LÐ81/BCND di chuyển vào đóng quân tại trại Bắc Tiến, cạnh trung tâm huấn luyện Quang Trung. Sau khi đã ổn định nơi đồn trú, tôi được lệnh lên trình diện đại tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng QLVNCH. Trước khi vào trình diện đại tướng, tôi đi thăm các phòng của Bộ Tổng Tham Mưu để tìm hiểu xem ý kiến của BTTM đối với Liên Ðoàn mình như thế nào. Ý tôi muốn cứ giữ nguyên MÀU CỜ SẮC ÁO của binh chủng Lực Lượng Ðặc Biệt nhưng khi đề cập đến vấn đề đó thì tất cả sĩ quan cao cấp của BTTM đều cho biết là khó thể đại tướng chấp nhận yêu cầu này. Cái lý do rất dễ hiểu là LLÐB đã giải tán nghĩa là trong Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa không còn có binh chủng LLÐB nữa, Liên Ðoàn 81 làm sao có thể xin giữ nguyên MÀU CỜ SẮC ÁO của binh chủng LLÐB được? Liên Ðoàn sẽ có phù hiệu riêng, còn mũ thì tất cả các đơn vị có NHẢY DÙ đều đội MŨ ÐỎ để cho quân đội được ÐỒNG NHẤT như Sư Ðoàn Nhảy Dù, Nha Kỷ Thuật, và Ðại Ðội Gấp Dù của Quân Nhu.
Sau khi nghe ý kiến chung của đại đa số sĩ quan cao cấp thuộc BTTM, tôi buồn bã nghĩ đến chiếc Mũ Xanh và phù hiệu cọp bay của LLÐB sẽ biến mất trong nay mai. Ôi cái Mũ Xanh và phù hiệu LLÐB là niềm hãnh diện của anh em chúng ta nay không còn nữa! Không, nhất định tôi phải tranh đấu cho chiếc Mũ Xanh và phù hiệu LLÐB được duy trì trong QLVNCH. Biết bao nhiêu xương máu của anh em chúng ta đã đổ ra dưới màu cờ sắc aó này, nay phải thay đổi thì làm sao mà không buồn được! Với quyết tâm đó, cho nên khi vào trình diện đại tướng, tôi đã có sẵn những lý do vững chắc để xin giữ lấy chiếc Mũ Xanh và phù hiệu LLÐB. Sau những lời hỏi han về tình hình quân số, nơi ăn chốn ở, tinh thần quân sĩ của liên đoàn, cuối cùng đại tướng liền hỏi tôi có đề nghị gì không? Ðây là lúc tôi phải đem hết tài hùng biện ra để xin đại tướng cho Liên Ðoàn được duy trì chiếc Mũ Xanh và phù hiệu LLÐB như cũ. Tôi nói:
“ Kính thưa đại tướng, tinh thần chiến đấu của bất cứ đơn vị nào phần lớn đều dựa vào sự tự hào trên MÀU CỜ SẮC ÁO, như sư đoàn Nhảy Dù với chiếc Mũ Ðỏ, Thủy Quân Lục Chiến thì có mũ Xanh, Biệt Ðộng Quân có Mũ Nâu, và anh em LLÐB thì hãnh diện với chiếc Mũ Xanh màu lá cây rừng. Anh em chúng tôi qua bao gian khổ đã tạo được nhiều chiến công ở chiến trường, một phần lớn cũng nhờ niềm kiêu hãnh đó. Nay LLÐB không còn nữa, nếu anh em chúng tôi không còn tiếp tục được đội chiếc Mũ Xanh và mang phù hiệu LLÐB thì không rõ tôi có đủ khả năng để duy trì tinh thần chiến đấu như cũ được không? Kính xin đại tướng minh xét cho điều lo lắng của tôi”.
Ðại tướng Viên ngồi yên lặng một lúc rồi nhìn tôi và nói
- “ Ðược rồi, để giữ vững tinh thần chiến đấu như khi còn LLÐB, tạm cho phép Liên Ðoàn được đội Mũ Xanh và mang phù hiệu LLÐB cho đến khi có lệnh mới “
Ðây là lần đầu tiên được đối diện với đại tướng, nên tôi không dám nói gì nhiều, không dám phàn nàn về việc bị cắt mất 2 đại đội để đưa sang ND, việc Ðại tướng chấp thuận cho được tiếp tục duy trì chiếc Mũ Xanh và phù hiệu LLÐB đã là mừng lắm rồi, mặc dù đó chỉ là tạm thời, nhưng tôi không dám mong mỏi gì hơn lúc này mà chỉ biết cám ơn Ðại tướng và ra về.
Trở về Liên Ðoàn, lòng buồn lo lẫn lộn, tôi không biết lệnh tạm thời này sẽ chấm dứt lúc nào để LÐ lại phải tuân lệnh cấp trên đội chiếc Mũ Ðỏ cho QLVNCH được đồng nhất. Tôi tự nghĩ, nếu những ngày sắp đến, LÐ81 không tạo nên được những chiến thắng đáng kể thì chắc chắn lệnh tạm thời kia sẽ chấm dứt! Không còn cách gì có thể duy trì chiếc Mũ Xanh và phù hiệu LLÐB mà anh em mình đã từng hãnh diện mang nó từ nhiều năm nay. Sau khi tiếp xúc với nhiều giới chức ở BTTM và tr/tướng Dư Quốc Ðống, tư lệnh sư đoàn ND thì được biết như sau: BTTM giao LÐ81 cho ND thì tr/tướng Ðống không nhận mà chỉ xin lấy 2 đại đội làm 2 đại đội trinh sát cho sư đoàn mà thôi. Bất đắc dĩ, BTTM phải tạm thời duy trì LÐ làm đơn vị tổng trừ bị, dù với quân số chỉ bằng một tiểu đoàn để xem tinh thần chiến đấu của LÐ81 có đáng được duy trì hay không rồi sẽ tính sau. Khi biết được tin này, tôi thật chán nản và muốn từ chức. Tôi là một sĩ quan của chiến trường, đã được nhiều vị tư lệnh biết đến, tôi rất nhiều hy vọng nhận được chức vụ xứng đáng ở đơn vị mới nhưng nghĩ lại, nếu tôi từ chức thì chắc chắn LÐ81 sẽ sát nhập vào sư đoàn ND, rồi sẽ bị phân tán và bổ sung quân số cho các tiểu đoàn đang thiếu hụt. Sở dĩ tr/tướng Ðống không nhận LÐ81 vì không biết xử sự với tôi như thế nào, chả lẽ đưa tôi về làm tiểu đoàn trưởng hoặc thay thế một lữ đoàn nào đó, nay tôi từ chức thì việc sát nhập vào ND để sư đoàn ND có được thêm quân số thì không gì quí bằng. Nghĩ vậy nên tôi nhất quyết ở lại với anh em, quyết tâm cùng anh em tạo nên những chiến thắng đáng kể dù cho tính mạng của tôi có bị hy sinh cũng chấp nhận, đó là lý do mà hể các anh em đồng đội có chạm súng với địch thì tôi đã có mặt tôi trên trời để điều động và yểm trợ, và nếu cần, tôi vẫn cho trực thăng chỉ huy đáp xuống để cứu toán hoặc đại đội như tôi đã làm. Tôi chưa bao giờ vắng mặt trong bất cứ một trận đánh lớn nhỏ nào kể cả chiến trường An Lộc. Tôi chấp nhận hy sinh, đã nhiều lần bò sát đến từng vị trí phòng thủ để an ủi khuyến khích anh em chứ không chịu ngồi dưới hầm sâu để ra lệnh, do đó tôi nghĩ vì thế mà tinh thần chiến đấu của LÐ81 mỗi ngày mỗi lên cao.
Tôi rất hãnh diện được chỉ huy một đơn vị mà ở mặt trận nào, LÐ81 cũng làm rạng danh những người chiến sĩ QLVNCH, đặc biệt nhất là ở chiến trường An Lộc năm 72, với 2 câu thơ cảm đề của cô giáo Pha đã lưu truyền tiếng tăm của BCD đến cho mọi người:
“An lộc địa sử ghi chiến tích,
Biệt Cách Dù vị quốc vong thân”
Quân dân ở An Lộc gọi chúng tôi là Biệt Cách Dù Cọp Bay (vì chúng tôi được mang phù hiệu BCD ở tay trái và LLÐB ở tay phải) nhưng đa số gọi chúng tôi là Biệt Cách Dù Lực Lượng Ðặc Biệt (BCDLLÐB).
Sau trận An Lộc, tôi được đại tướng gọi lên trình diện, đại tướng thật vồn vã, niềm nỡ, không nghiêm nghị như lần trình diện đầu tiên, đại tướng nói
- “ Từ nay LÐ81 chính thức được phép đội Mũ Xanh và mang phù hiệu LLÐB. LÐ81 xứng đáng được hưởng những huy chương mà trước đây LLÐB đã nhận lãnh.”

Tôi rất đỗi vui mừng và thấy đây là lúc nêu lên vấn đề quân số của LÐ81 và 4 chữ BIỆT CÁCH NHẢY DÙ đã bị BTTM cắt mất khi ban hành bản cấp số cho LÐ81. Ð/tướng cũng chấp thuận cho phục hồi lại 4 chữ BCND và sau này LÐ81 đã có bảng cấp số mới, quân số lên đến 3000 gồm có một Bộ Chỉ Huy Liên Ðoàn, 1 Ðại Ðội Chỉ Huy Yểm Trợ và 3 Bộ Chỉ Huy Chiến Thuật (BCH/CT), mỗi BCH/CT có 4 Biệt Ðội (BÐ), mỗi BÐ có 200 quân. Ðiều may mắn nhất là LÐ81 được hưởng các huy chương của LLÐB để đủ số huy chương ấn định cho việc mang dây biểu chương màu đỏ BẢO QUỐC HUÂN CHƯƠNG, nếu không được số huy chương của LLÐB thì LÐ81 còn phải nhiều năm và phải tốn biết bao nhiêu xương máu nữa mới đạt được dù rằng số huy chương của LLÐB cũng do công đóng góp của BCD và Delta không nhỏ.
Sau cuộc tổng công kích tết Mậu Thân năm 68, Việt cộng bị thảm hại nặng nề, nên chúng tạm ngưng hoạt động để chỉnh đốn lại hàng ngũ. Trong thời gian này, toàn lãnh thổ VNCH kể như được tạm thời lắng dịu, ít có những trận đánh lớn mà chỉ có những trận đánh nhỏ của các đơn vị du kích địa phương mà thôi. Rồi đến Mùa Hè Ðỏ Lửa năm 72, nghĩa là sau 4 năm chỉnh đốn lại hàng ngũ, Việt cộng đồng loạt mở các cuộc tổng tấn công vào 3 thành phố lớn của VNCH đó là An Lộc, Kontum, và Quảng Trị với cấp quân số lên đến cỡ Quân Ðoàn. Lại một lần nữa Việt cộng bị đánh cho tan nát khắp nơi mặc dầu chúng đã đưa vào những vủ khí mới tối tân hơn lần đầu tiên được đem ra xử dụng tại chiến trường miền Nam như chiến xa T54, T59, PT76,AT3 chống chiến xa, SA7 cầm tay chống phi cơ, cao xạ phòng không 37 ly và 75 ly, v.v.v. Ngoài ra, Việt cộng còn dùng chiến thuật đặc công, chỉ dùng một số ít quân số, mang súng nhỏ, còn phần lớn đều trang bị kềm cắt dây kẻm gai và chất nổ, lợi dụng đêm tối, đặc công cắt hàng rào đột nhập vào vị trí đóng quân của ta tấn công bằng chất nổ đã gây nhiều tổn thất nặng nề cho ta. Ngoài chiến thuật đặc công quỉ quái này, chúng còn áp dụng chiến thuật đóng chốt và đóng kiền cũng không kém phần nguy hiểm! Chỉ với quân số cấp trung đoàn mà địch đã đóng chốt cầm chân cả sư đoàn 21 Bộ Binh và lực lượng Dù của ta trên quốc lộ 13 ở suối Tàu Ô khi tiến vào giải tỏa An Lộc cả gần một tháng trời vẫn không vượt qua được! Lúc này LÐ81 đang tử thủ trong thành phố An Lộc nên đã không được cùng các đơn vị bạn “nhổ chốt, phá kiềng” cho VC nể mặt. Cho nên năm 1973 khi chúng vào đóng chốt ở Bến Thế thuộc tỉnh Bình Dương, sư đoàn 5 đưa lực lượng đến giải tỏa nhiều ngày không được, nên LÐ81 đang hành quân ở chiến khu D (sau khi tham dự hành quân tái chiếm Quảng Trị trở về ) liền được lệnh thay thế sư đoàn 5 để “phá chốt ” ở Bến Thế. Chỉ sau hai đêm hành quân đã lấy lại Bến Thế mà không cần đến pháo binh hoặc không quân yểm trợ, quân đoàn III thấy LÐ81 nhổ chốt phá kiền dễ dàng quá nên hễ nơi nào đơn vị bạn gặp khó khăn thì LÐ81 được ưu ái gọi đến. Hết Bến Thế lại đến Trảng Bàng, đặc biệt là tại Tha La xóm đạo sau ngày đã ký kết hiệp định đình chiến vào đúng tết năm 73, khi tiểu khu Hậu Nghĩa cho 1 tiểu đoàn Ðịa Phương Quân đến giải tỏa nhiều ngày không được thì LÐ81 lại được gởi đến, tại đây cũng chỉ cần 2 đêm hành quân, không cần đến pháo binh hoặc không quân yểm trợ đã tái chiếm lại được Tha La xóm đạo với rất ít tổn thất nhưng nhà cửa và tài sản của dân chúng không bị hư hao. Hết Bến Thế, Tha La xóm đạo, rồi năm 1974 tại Tân Phú Trung thuộc quận Củ Chi, chỉ cách Saigon không bao xa, việt cộng vào đóng chốt tại đây, ngăn chận lưu thông trên quốc lộ I từ Tây Ninh về Saigon! Tất cả xe hàng từ Tây Ninh muốn chạy về Saigòn phải chạy vòng lên Bình Dương mới về Saigòn được. Sư đoàn 25 gặp vài khó khăn để bứng VC ra khỏi những “chốt kiềng” vì chúng đã đưa tiểu đoàn 9, tinh nhuệ nhất của tr/đoàn 172 thuộc sư đoàn 7 việt cộng đến đóng chốt tại đây. Chốt này thật quá kiên cố, cộng sản đã đưa đến cả súng cối 82 ly và một hệ thống điện thoại chằng chịt qua nhiều chốt nhỏ khắp xã Tân Phú Trung, nên LÐ81 đã được gửi tới và dù “chốt kiềng” của địch vững chắc như thế nhưng chỉ với 1 ngày và 2 đêm giao chiến ác liệt, không cần cả đến sự yểm trợ của pháo binh hay không quân dể tránh gây thiệt hại cho dân chúng cũng như dùng chiến thuật du kích chiến để “gậy ông lại đập lưng ông” mà nhổ chốt với một số tổn thất của ta tương đối chấp nhận được.
Qua những chiến thuật mà LÐ81 đã áp dụng để tạo nên những kỳ công, BTTM đã lấy những chiến thắng của LÐ81 làm tài liệu phổ biến Kinh Nghiệm Chiếạn Trường gởi đến cho QLVCNCH để rút kinh nghiệm. Qua nhiều lần gặp mặt đ/tướng Viên và nhiều giới chức có thẩm quyền ở BTTM thì được biết tất cả nhận thấy LÐ81 có 3 cái khả năng đáng kể mà ít có đơn vị nào có được, đó là:
* Có thể tách ra thành từng toán nhỏ để thả sâu vào hoạt động nhiều ngày ở hậu tuyến địch.
* Có thể đánh đêm bằng du kích chiến được.
* Có thể tập trung lại để đánh trận địa chiến như các đơn vị khác được.
Nếu không có ngày 30 tháng 4 năm 1975 thì chắc chắn LÐ81 sẽ còn lớn mạnh hơn nữa nhưng than ôi Liên Ðoàn đã phải uất hận cùng toàn thể quân lực miền Nam buông súng vào giờ phút cuối của cuộc chiến để rồi nhiều chiến hữu đã phải trải qua bao nhục nhã đắng cay trong các nhà tù cải tạo của cộng sản. Tuy thất trận, nhưng LÐ81 cũng đã làm cho cộng sản phải nể phục với tinh thần kỷ luật của một đơn vị anh hùng trong hàng ngủ chỉnh tề cho đến giây phút cuối cùng khi buông súng.
Trại tù Nam Hà có gần 1,000 tù cải tạo vào năm 78, trong số đó có vài trăm cấp đại tá không đi lao động suốt nhiều tháng, được nghỉ ở trại để viết về đề tài CUỘC ÐỜI TÔI nghĩa là kê khai tất cả chi tiết từ nhiều đời, đến khi vào quân đội cho đến ngày 30/4/75. Suốt ngày ngồi viết dưới sự trông coi của cán bộ, chiều đến thì nạp bài để đêm đến họ kiểm soát lại xem mình có viết đúng như họ hướng dẩn không. Sáng hôm sau thì họ kêu những người không viết theo hướng dẩn lên để xỉ vã! Cán bộ thì ngồi trên ghế, người bị kêu lên ngồi dưới đất để nghe những lời hạch hỏi thiếu văn hóa của kẻ thắng trận. tôi nhìn cảnh đó quá uất hận, rồi nghĩ nếu chẳng may đến lượt mình thì có chịu đựng được không? Nhất là khi Danh dự của chiếc Mũ Xanh bị tổn thương, lúc đó chắc tôi khó mà kềm chế được sự tức giận để rồi sự thể có ra sao cũng đành cam chịu. Ðiều bất hạnh là tôi bị kêu lên thật, tên tr/úy Quốc là cán bộ văn hóa của trại với dọng nói cục cằn đã xỉ vã tôi “Anh viết tắt thế này (tôi viết tắt chữ Biệt Cách Nhảy Dù thành BCND).thì khi gởi thư, bố mẹ anh làm sao đọc được? “ Không kềm chế được! Máu uất nổi lên, tôi đứng phắt dậy, dằn mạnh tập giấy đang viết xuống bàn và la lên cốt cho tất cả mọi người cùng nghe “ Nếu tôi có tội thì cứ giết tôi, còn cha mẹ tôi không có tội, cán bộ đừng đụng đến cha mẹ tôi” Bị tôi phản ứng bất ngờ, Tên Quốc giận tím mặt, ngồi yên lặng một lúc rồi đứng dậy đến bắt tay tôi và xin lỗi. Tôi liếc nhìn anh em đại tá đang ngồi, thấy anh em hoảng hốt, sợ tánh mạng tôi sẽ bị nguy hại vì sự nóng giận đó, sau đó mới thấy tôi tuy quá uất hận nhưng cũng rất khôn ngoan đã lợi dụng cái lỗi của nó đụng chạm đến cha mẹ tôi để làm lớn chuyện mà tên Quốc không làm gì tôi được lúc đó nhưng tôi biết chắc chắn tôi sẽ bị trả đũa sau này. Từ sau ngày đo,Ô tôi thấy bọn chúng bớt hống hách hơn với anh em đại tá.
Viết xong CUỘC ÐỜI TÔI thì tiếp đến viết về đề tài CÁC TƯỚNG NGỤY, viết tất cả những tướng nào mà mình biết, tôi chỉ viết các tướng tư lệnh LLÐB đã chỉ huy trực tiếp tôi mà thôi, tôi vẫn lập luận là cấp tướng thì đương nhiên phải giỏi hơn tôi, tôi làm sao giỏi hơn để phê bình họ được? Tôi chỉ nói sơ lược cách hành xử của các tướng tư lệnh mà không một phê bình nào về đúng hay sai nên cán bộ bực tôi lắm! Cũng thành thực mà nói trong số mấy trăm đại tá cũng có một hai người phê bình cấp tướng chỉ huy của mình, anh em nói nhỏ với nhau là tên đó không được ông tướng chỉ huy nâng đỡ nên bây giờ là có dịp để trả thù! Một buổi sáng nọ, tất cả lên hội trường để nghe cán bộ ở bộ nội vụ về nói chuyện, khi đã ngồi yên vị, cán bộ liền nói “ Hôm nay là buổi họp mặt để phê bình những khai báo của các anh trong mấy tháng qua, có 3 anh đáng được đưa ra để anh em phê bình xây dựng, đó là anh Phan Văn Huấn, anh Tạ Thành Long, và anh Lý Văn Minh đã có những tư tưởng không tốt như anh Huấn chẳng hạn, anh Huấn viết là: “ Tôi chưa bao giờ nói dối với các con tôi, ngày đi trình diện học tập cải tạo, tôi đã nói chính phủ cách mạng chỉ bắt đi học tập cải tạo một tháng rồi ba sẽ trở về với các con, nay đã 3 năm rồi không thấy về nhưng tôi không biết giải thích với các con tôi như thế nào, vậy xin cán bộ chỉ giùm cho, các anh cho biết những thắc mắc của anh Huấn như thế có đúng không?” Cán bộ nói xong liền cho anh em nghĩ 10 phút để suy nghĩ và góp ý phê bình. Trong thời gian đó, tôi thấy nhiều cán bộ gọi nhiều người ngồi riêng để nói chuyện nhỏ to gì đó, tôi biết chắc là cán bộ khuyên dụ anh em phải phê bình tôi không biết ơn cách mạng đã tha tội chết cho mà còn đặt những câu hỏi làm mất uy tín cách mạng. Ðến giờ vào họp lại thì lần lược các anh Cao Văn Ủy, Phạm Bá Hoa, Phan Thông Tràng, và nhiều anh em khác lần lược đứng lên phát biểu ý kiến, tôi biết chắc một điều là cộng sản chỉ cần một anh phê bình tôi là lập tức tôi bị cùm và dẩn đi kiên giam ở một nơi khác để dằn mặt các đại tá. Như t/tá Hàng, trưởng ty cảnh sát tỉnh Quảng Tín vì chủ mưu trong việc mua radio của một cán bộ để nghe lén đài BBC nên bị đưa đi kiên giam, chỉ hôm sau là đã thấy tù hình sự khiên xác đi chôn, tr/tá Nguyễn văn An, LLÐB trốn trại hai lần bị bắt lại liền bị đưa ra trại Mễ kiên giam, ít lâu sau thì cũng khiêng xác ra nghĩa địa! Ðội 20 lao động chống đối lao động liền bị đưa đi giam ở trại Mễ, chỉ ít lâu sau thì có sáu bảy người nó nghi là xách động cũng đều bị khiêng xác ra nghĩa địa. Bây gìờ số phận tôi nằm trong danh dự của các anh em đại tá, thôi ta chấp nhận chết, đây cũng như là tử trận ở chiến trường mà ta đã chấp nhận từ lâu. Ðiều hảnh diện hết sức là anh em cứ nói vòng vo Tam Quốc, không đâu vào đâu hết khiến cho các cán bộ bực tức mà chẳng biết làm gì hơn được.
Năm 1988, tôi và một số lớn tù được tha về vào mấy ngày trước Tết, về tới nhà tôi rất đau lòng khi thấy vợ và 7 con đang sống trong cảnh nghèo nàn xơ xác, nhưng tôi cũng tự an ủi là mình còn may mắn hơn nhiều anh em khác, khi về nhà đến nhà thì không còn đủ vợ con. Ngày 18/3/93 vợ chồng tôi và 3 con được ra đi đến định cư tại California theo diện nhân đạo HO, tại đây đã có hội Thân Hửu Lực Lượng Ðặc Biệt thành lập từ năm 1987 và đang ngưng hoạt động, do đó anh em đã đề nghị tôi đứng ra thành lập hội Gia Ðình 81BCND/LLÐB để đại diện đầy đủ hơn cho các chiến hữu của cả hai binh chủng BCD, LLÐB cũng như anh em Delta, và hội đã được thành lập ngày 04 tháng 7 năm 1993.
Kể từ ngày thành lập đến nay GÐ81/BCD/LLÐB đã liên lạc được trên 500 anh em Delta (kể cả BKQ), BCD và LLÐB, đã gây quỹ TÌNH THƯƠNG để tương trợ cho các gia đình thương binh tử sĩ và anh em BCD/LLÐB nghèo khổ ở quê nhà, số tiền tương trợ đã lên tới trên 50,000 và đã được báo cáo chi tiết trên 28 bản tin nội bộ. Tuy GÐ81 là một hội riêng nhưng công việc làm đều được thực hiện dưới danh nghĩa chung cho cả hai đơn vị BCND và LLÐB vì DANH DỰ của “mầu cờ sắc áo”, và của chiếc nón mầu Xanh lá cây rừng DŨNG CẢM.

Không có nhận xét nào: